30-05-2023 - 23:53

Phân tích bài thơ "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác" của Phan Bội Châu

Phân tích bài thơ "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác" của Phan Bội Châu – Bài làm 1

Phan Bội Châu (1867 1 1940) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỷ XX. Năm 1913, cụ đang hoạt động cách mạng tại Trung Quốc, một ngày cuối năm, tổng đốc Quảng Đông đã bắt giam cụ vào khám từ hình, âm mưu trao trả nhà cách mạng Việt Nam cho thực dân Pháp.

Tại nhà ngục, ngay đêm đầu tiên, cụ viết bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật để an ủi, động viên mình. Nhan đề bài thơ là Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

Chạy mồi chân thì hãy ở tù.

Đã khách không nhà trong bốn biển,

Lại người có tội giữa năm châu.

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Bài thơ thể hiện khí phách hiên ngang, bất khuất và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ trong cảnh tù đày nguy hiểm.

Câu thơ thứ nhất có hai vế tiểu đối, điệp ngữ vẫn làm cho giọng thơ rắn rỏi, mạnh mẽ, khẳng định một tâm thế hào kiệt và phong lưu:

Vẫn là hào kiệt / vẫn phong lưu.

Hào kiệt là người có tài cao, chí lớn khác thường. Phong lưu có nghĩa là dáng vẻ lịch sự, trang nhã biểu lộ một phong thái ung dung tự tại và thanh cao. Câu thơ thứ hai, tác giả xem nhà ngục quân thù như một bến đậu sau những tháng ngày chạy mỏi chân, hoạt động sôi nổi, trải qua muôn vàn gian truân thử thách:

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Sau gần 10 năm bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước (1905 – 1913), Phan Bội Châu lúc hoạt động ở Nhật, lúc sang Thái Lan, lúc ở Trung Quốc. Bốn tiếng thì hãy ở tù nói lên một thái độ chủ động, bình tĩnh trước tai ương thử thách. Hai câu đề biểu thị một cốt cách kẻ sĩ anh hùng.

Hai câu thực nói lên cảnh ngộ của một chiến sĩ cách mạng trong cảnh nước mất nhà tan, phải sống lưu vong nơi xa lạ (khách không nhà), lại bị tù tội. Đó là bi kịch lịch sử mà Phan Bội Châu và hàng nghìn chiến sĩ cách mạng tiền bối đã trải qua. Hai câu 3, 4 đối nhau làm nổi bật tinh thần hy sinh xả thân vì độc lập tự do cho Tổ quốc, một chí lớn tung hoành trên một không gian địa lý mênh mông: năm châu bốn bể. Xem thêm:  Phân tích ý nghĩa của truyện Sơn Tinh Thủy Tinh

Đã khách không nhà trong bốn biển

Lại người có tội giữa năm châu.

Hai mươi bảy năm sau (1940), trước lúc qua đời, ý thơ trên đã được nhắc lại như một nỗi niềm đau đớn:

Những ước anh em đầy bốn bể,

Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian.

(Từ giã bạn bè lần cuối cùng)

Hai câu 5, 6 trong phần luận thể hiện niềm tự hào về tài kinh bang tế thế (bồ kinh tế) giúp nước giúp dân, làm nên sự nghiệp lớn. Mối thù đối với lũ thực dân cướp nước và bọn phong kiến tay sai (cuộc oán thù) không bao giờ nguôi, quyết cười tan, rửa sạch:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Các từ ngữ hình ảnh: Bủa tay ôm chặt, mở miệng cười tan nói lên một tư thế hào hùng, một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi, sẵn sàng xả thân vì một lý tưởng cách mạng cao cả: giúp đời, cứu nước.

Nghệ thuật đối làm cho giọng thơ thêm đĩnh đạc hào hùng. Hình ảnh kỳ vĩ, các động từ gợi tả, (ôm chặt, cười tan) đã dựng nên một trang anh hùng hào kiệt trong cảnh tù đày nguy hiểm vẫn lạc quan, bất khuất.

Hai câu trong phần kết khẳng định một niềm tin mạnh mẽ, biểu lộ một khí phách hiên ngang. Tin mình vẫn tồn tại, hãy còn; sự nghiệp cứu nước, cứu dân là chính nghĩa đang mở rộng ở phía trước. Chứ còn điệp lại hai lần, giọng thơ thêm hùng hồn, niềm tin tưởng lạc quan thêm chói sáng:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!.

Đang bị gông cùm trong nhà ngục tử tù, là nguy hiểm. Nay mai phải bước ra pháp trường, là nguy hiểm… Bao nhiêu nguy hiểm máu chảy đầu rơi, thịt nát xương tan, nhưng đối với Phan Bội Châu thì sợ gì đâu. Trước vòng nguy hiểm vẫn hiên ngang thách thức, vẫn bất khuất, kiên cường: Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu! Phan Bội Châu đã thể hiện một tâm thế uy vũ bất khuất của nhà cách mạng chân chính.

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ vĩ đại: giàu lòng yêu nước, hiên ngang, bất khuất, lạc quan trong tù đày nguy hiểm. Bài thơ có ngôn từ trang trọng, giọng điệu mạnh mẽ hùng hồn làm hiện lên bức chân dung tinh thần tự họa của bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng như Nguyễn Ái Quốc đã ca ngợi. Xem thêm:  Nghị luận xã hội về Học đi đôi với hành

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là viên ngọc quý trong thơ văn Phan Bội Châu, một khúc tráng ca anh hùng.

Phân tích bài thơ "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác" của Phan Bội Châu – Bài làm 2

Phan Bội Châu là một trong những nhà chiến sĩ cách mạng và cũng là một nhà nghệ thuật lớn của dân tộc. Ở trong ông, luôn có sự giao thoa giữa hai tính cách đó là tâm hồn lãng mạn của một người nghệ sĩ và cả ý chí chiến đấu mãnh liệt của người chiến sỹ cứu nước với tinh thần gang thép. Những điều đó đã được thể hiện một cách rõ nét qua những tác phẩm của ông và đặc biệt là bài thơ “ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” được ông viết khi đang bị bắt giam, thế nhưng tinh thần của ông thể hiện qua bài thơ thì không hề bị ảnh hưởng bởi điều đó mà nó vẫn toát lên vẻ đẹp trong tâm hồn của người chiến sĩ.

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

Chỉ hai câu thơ đầu mà tinh thần của người chiến sĩ đã được thể hiện một cách rõ nét. Nhà thơ tự thấy mình là người hào kiệt, mang trong mình dòng máu của những đại trượng phu. Từng câu chữ thể hiện được cái nhìn của ông về cuộc sống của mình. Ông không coi việc mình bị bắt giữ là một điều khó khăn mà ông coi đó là việc nghỉ ngơi khi ông đã đi “ mỏi chân” tại khắp mọi nơi. Thế mới thấy được tinh thần của những người chiến sĩ bất khuất nhưng cũng lạc quan tới mức nào.

Đã khách không nhà trong bốn biển Lại người có tội giữa năm châu

Người chiến sĩ ấy có tinh thần hiên ngang với ý chí to lớn tới khắp mọi nơi trong thế gian này. Thế nhưng ông lại phải chịu cảnh không hề có nhà trong cả một trời đất to lớn, không những thế ông còn phải mang danh xấu, bị bắt mà không thể hiện được, làm được theo đúng những nguyện vọng của mình trong suốt cuộc đời au này của mình.. Những câu thơ đầu đã thể hiện được cái tình thần lạc quan của nhà thơ thế nhưng với hai câu sau, chúng ta lại cảm nhận được phần nào đó những điều bất lực tỏng suy nghĩ của ông lúc bấy giờ. Cả một biển trời, nhưng không có nơi đâu là nhà, ý chí đi xa khắp bốn bể năm châu nhưng cũng chỉ có thể xả thân mình mà hy sinh cũng không thể làm được những điều mà mình mong muốn. Điều đó cũng đúng đối với hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ khi ông bị quân giặc bắt và giam lỏng cho tới suốt cuộc đời sau này của mình. Xem thêm:  Phân tích bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Tuy bị bắt, bị giam giữ về thể xác nhưng nhà thơ vẫn giữ được cho mình những ý chí và suy nghĩ về cuộc kháng chiến cách mạng. Ông luôn nuôi dưỡng trong mình những tư tưởng hào hùng và không bao giờ có thể đầu hàng trước khó khăn, số phận, để luôn bùng cháy lên ngọn lửa khát vọng được hi sinh vì tổ quốc. biết bao nhiêu những khó khăn, những điều tưởng chừng như sẽ không thể nào mà vượt qua được thì chỉ cần cười lên, lạc quan lên thì những điều đó sẽ thay đổi, sẽ không còn những khó khăn ở phía trước nữa. Thế mới thấy được tinh thần của nhà thơ, của người chiến sĩ như Phan Bội Châu không chỉ là một vài cá nhân mà còn biểu thị cho cả một tập thể với những điều cố gắng vì tương lại và sự nghiệp của đất nước.

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu

Hai câu cuối trong tác phẩm là một điều mà chúng ta không thể nào mà quên đi được cái mãnh liệt, cái sức sống với những ý chí kiên cường, đầy nghĩ lực. Biết bao nhiêu khó khăn cũng những nguy hiểm cũng không là gì hết mà chỉ là những điều bến ngoài mà thôi. Điều quan trong nhất chính là việc chúng ta  cố gắng bảo về được tinh thần, cốt cách cùng những điều đã được khắc sâu trong tim của mình thì những điều đó sẽ luôn còn mãi mà không thể thay đổi.  Đó cũng chính là điều khẳng định của mỗi người, niềm tin mạnh mẽ với ý chí hiên ngang và bất khuất tôn tại giữa đất trời của người chiến sĩ.

Chỉ với một bài thơ ngắn thế nhưng “ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” đã khiến cho chúng ta cảm thấy vô cùng xúc động với tinh thần và ý chí bất khuất của người chiến sĩ luôn hết lòng hi sinh vì tổ quốc và những suy nghĩ, những quyết tâm  của tác giả luôn cố gắng khắc sâu trong lòng của mình. Người chiến sĩ ấy luôn có được những niềm lạc quan, hứng khởi dù gặp phải khó khăn trong bất cứ trường hợp nào khác. Đó chính là một nét đẹp mà không phải ai cũng có thể có được.